Tranh cá chép mang ý nghĩa may mắn, cát tường
Tranh vẽ “song ngư cát hạnh” thường được sử dụng nhiều trong những cuộc hôn lễ. Trong các vật dụng thường ngày hay trong xây dựng và cả quần áo thường có hình hoa văn vẩy cá, người ta gọi là “ngư lân cẩm”.
Trong các bức tranh Tết truyền thống, chúng ta thường hay bắt gặp bức tranh vẽ đứa trẻ ôm con cá chép. Cá chép trong tranh hiển nhiên được xem là biểu tượng của sự may mắn.
Trong văn hoá truyền thống, hàm nghĩa văn hoá của cá được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau. Ở thời cổ có “ngư tố”, theo tương truyền, đó là hình thức dùng lụa viết thư rồi nhét vào bụng cá để gửi đi, vì vậy được gọi là “ngư truyền xích tố” hoặc là “ngư thư” hay là “ngư tiên”. Ngoài ra, còn có hình thức “ngư phù”, “ngư khế” là tín vật tương tự như hổ phù. Ở đời Tuỳ Đường, triều đình thường phát cho các quan ngư phù, là những tấm gỗ hoặc đổng được khắc hoặc đúc thành hình con cá, sau đó viết chữ lên với mục đích làm tín vật.
Trong lễ hội đèn lồng dân gian cũng có “ngư đăng”, tức là đèn lồng làm thành hình con cá. Hay dụng cụ gõ để tạo thành tiết tấu của các sư tăng trong chùa khi tụng kinh (mõ) thường gọi là “ngư cổ”, “mộc ngư” (có nghĩa là cá gỗ).
Thời nhà Đường coi cá là một loài vật cát tường, nguyên nhân chủ yếu là dựa vào hiện tượng đồng âm. Như những bức tranh cát tường “liên niên hữu dư” hoặc trẻ nhỏ, hoa sen và cá, “ngư” đồng âm với “du” (2 chữ này trong tiếng Hán có sự phát âm giống nhau), ngụ ý về một cuộc sống no đủ hạnh phúc.
Bức tranh “Liên niên hữu dư” vẽ một đàn cá chép đang bơi lội quanh hoa sen với ý nghĩa sẽ được dư dả quanh năm.
Bên cạnh đó, còn có bức “song ngư cát hạnh” vẽ hình 2 con cá để ngụ ý chỉ sự cát tường, loại tranh vốn đã có từ rất lâu. Ở thời nhà Hán, dưới đáy các đồ đồng được dùng để đựng nước rửa mặt, rửa tay chân thường vẽ hình con cá và mặt bên đề 3 chữ “đại cát tường”, vì thế nên đời sau đã có câu đối: “Tấn chuyên ngũ lộc nghi tử tôn, Hán tẩy song ngư đại cát tường” (có nghĩa, gạch nhà Tấn khắc 5 con hươu để phù hộ con cháu, đồ rửa nhà Hán vẽ 2 con cá thể hiện gặp được nhiều may mắn).
Tranh vẽ “song ngư cát hạnh” thường được sử dụng nhiều trong những cuộc hôn lễ. Trong các vật dụng thường ngày hay trong xây dựng và cả quần áo thường có hình hoa văn vẩy cá, người ta gọi là “ngư lân cẩm”. Cá có rất nhiều chủng loại khác nhau, nhưng trong những câu nói cát tường hay bức tranh cát tường thì cá chép và cá vàng thường được nhắc đến nhiều nhất. Điều này cũng xuất phát từ hiện tượng đồng âm trong tiếng Hán. Chữ “lý” trong lý ngư (có nghĩa là cá chép) đồng âm với chữ “lợi” (có lợi), vậy nên, hình ảnh cá trong 2 bức tranh cát tường “ngư ông đắc lợi” và “gia gia đắc lợi” đều là cá chép. Bức thứ nhất vẽ về ngư ông thả câu bắt được cá, thường được dùng để làm tranh trang trí cho các cửa hàng hoặc thương hiệu; bức thứ 2 vẽ hình ảnh nhà nhà đi mua cá.
Theo tục truyền, cá chép nhảy rất giỏi, nên thời cổ mới có câu chuyện “cá hoá rồng” hay “cá chép vượt long môn”. “Cá hoá rồng” là một câu chuyện truyền thuyết vốn được tưởng tượng nên, có thể xem là lời chúc thành công và trong dân gian cũng có đề tài tranh vẽ này. Còn “cá chép vượt long môn” chính là nói đến câu chuyện “cá hoá rồng”. Truyền thuyết cho rằng, tất cả các loài sống dưới nước một khi vượt qua được long môn thì sẽ có được sự biến hoá thành công, nhưng phần lớn các loài này đều không vượt qua được cửa ải và còn bị bể đầu chảy máu; nhưng riêng cá chép lại có thể nhảy được qua (tất nhiên không phải là tất cả) và biến hóa thành rồng. Vì vậy mà người đời sau thường dùng hình ảnh “cá chép vượt long môn” để ví cho sự thăng tiến, hoặc lời chúc thăng tiến, may mắn. Hình ảnh cá chép cuộn mình trong sóng lớn (sóng ở đây tượng trưng cho long môn) cũng được sử dụng nhiều trong các loại hình nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, thêu dệt, cắt giấy…
Mặt khác, cá chép thường đẻ rất nhiều trứng, nên được dùng với ý nghĩa cầu chúc đông con và trở thành tượng trưng cho con đàn cháu đống. Phía trên của các đồ đồng ở thời nhà Hán thường được trang trí bằng hình ảnh 2 con cá chép và ở giữa có khảm thêm 4 chữ “quân nghi tử tôn” chính là một biểu hiện của phong tục này. Theo phong tục hôn lễ ở vùng Triết Đông, khi cô dâu bước ra khỏi kiệu, sẽ rải những đồng tiền đồng lên mặt đất, gọi là “lý ngư tát tử”, (nghĩa là cá chép rải con), hàm ý sẽ có được nhiều con cái.
Cá vàng là một trong những loài cá cảnh quý. Vảy của loài cá này rất óng ánh, tư thái của cá thường đĩnh đạc, chìm nổi một cách tự nhiên, bơi lượn nhẹ nhàng, khoan thai, được mọi người hết sức yêu quý và gọi là “kim lân tiên tử” (vị tiên vảy vàng) hay là “thuỷ trung mẫu đơn” (mẫu đơn trong nước), người phương Tây cũng gọi cá chép là “đông phương thánh ngư’ (nghĩa là cá thần phương Đông). Cá vàng cũng là loài phổ biến nhất trong các loại cá cảnh bởi ngoại hình của nó rất đẹp. Ngoài ra, cũng vì đồng âm nên cá vàng còn được coi là vật cát tường. Cá vàng còn được gọi là kim ngư, kim đồng âm với “kim ngọc”, vì vậy, bức tranh cát tường “kim ngọc mãn đường” chính là bức vẽ về một đàn cá.
Leave a Reply